HƯỚNG DẪN ÁP DỤNG CÁC ĐIỀU VỀ TỘI GIAN LẬN,
TỘI TRỐN BHXH, BHYT, BH THẤT NGHIỆP
Ngày 15/8/2019, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành Nghị quyết số 05/2019/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng Điều 214 về tội gian lận Bảo hiểm xã hội (BHXH), Bảo hiểm thất nghiệp (BHTN), Điều 215 về tội gian lận Bảo hiểm y tế (BHYT) và Điều 216 về tội trốn đóng BHXH, BHYT, BHTN cho người lao động của Bộ luật Hình sự, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/9/2019.
Điều 3 của Nghị quyết quy định về một số tình tiết định khung hình phạt. Theo đó, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp quy định tại điểm b, khoản 2, các Điều 214 và 215 của Bọ luật Hình sự là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi gian lận BHXH, BHTN, BHYT từ 5 lần trở lên và người phạm tội lấy khoản lợi bất chính thu được từ việc phạm tội làm nguồn thu nhập. Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt quy định tại điểm đ, khoản 2, các Điều 214 và 215 của Bộ luật Hình sự là trường hợp người phạm tội sử dụng công nghệ cao, móc nối với người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan nhà nước, hoặc thủ đoạn gian dối, mánh khóe khác để tiêu hủy chứng cứ, che dấu hành vi phạm tội, gây khó khăn cho việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm. Phạm tội 2 lần trở lên quy định tại điểm a, khoản 2, Điều 216 của Bộ luật Hình sự; là trường hợp đã thực hiện hành vi phạm tội trốn đóng BHXH, BHYT, BHTN cho người lao động từ 2 lần trở lên nhưng đều chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Không đóng số tiền bảo hiểm đã thu hoặc đã khấu trừ của người lao động quy định tại điểm d, khoản 2, và điểm c, khoản 3, Điều 216 của Bộ luật Hình sự là trường hợp người sử dụng lao động đã thu hoặc đã khấu trừ tiền đóng bảo hiểm từ tiền lương tháng đóng bảo hiểm của người lao động nhưng không đóng cho cơ quan bảo hiểm.
Điều 5, Nghị quyết nêu rõ, đối với hành vi trốn dongd BHXH, BHYT, BHTN thực hiện trước 0 giờ 00 phút ngày 01/01/2018 thì không xử lý về hình sự theo quy định tại Điều 216 của Bộ luật Hình sự mà tùy từng trường hợp xử lý như sau: Trường hợp chưa xử phạt vi phạm hành chính và chưa hết thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính thì cơ quan có thẩm quyền xem xét xử phạt vi phạm hành chính. Trường hợp đã xử phạt vi phạm hành chính mà cá nhân, tổ chức bị xử phạt cố tình trốn tránh, trì hoãn việc thi hành thì thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính được xác định thoeo quy định tại khoản 2, Điều 74 của Luật Xử lý vi phạm hành chính. Việc thi hành, cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính này thực hiện theo pháp luật về thi hành, cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Trường hợp gây thiệt hại cho người lao động, cơ quan BHXH hoặc tổ chức, cá nhân khác thì người bị thiệt hại có thể khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đối với người vi phạm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự… Ngoài ra, Điều 5 quy định, không coi việc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trốn đóng BHXH, BHYT, BHTN cho người lao động trước 0 giờ 00 phút ngày 01/01/2018 là căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 216 của Bộ luật Hình sự.
Ngoài các quy định nêu trên, Nghị quyết này còn có nội dung quy định truy cứu trách nhiệm hình sự trong một số trường hợp cụ thể; xác định tư cách tố tụng của cơ quan bảo hiểm xã hội…